BÁN HẠ BA THÙY
BÁN HẠ BA THÙY
Tên khoa học: Typhonium trilobatum (L.) Schott
Tên khác: Củ chóc, chóc chuột, bán hạ nam, nam tinh, ba chìa, phjăc hẻo (Tày), co thả lủa (Thái), nàng pía hẩu (Dao).
Họ: Ráy (Araceae).
Mô tả
Cây thảo, sống hàng năm, cao 20 – 30cm. Thân củ hình cầu, có những khía ngang. Lá mọc từ củ, có cuống dài pha màu đỏ tím nhạt, phần gốc loe ra thành bẹ; phiến lá chia 3 thùy, thùy giữa to hình thoi, hai thùy bên hẹp hơn, xòe ngang, gốc hình tim, đầu nhọn, mép uốn lượn, gân mặt dưới lá đôi khi cũng có màu đỏ tím.
Cụm hoa là một bông mo, ngắn hơn lá; mo có phần ống hình trứng hoặc bầu dục thuôn màu lục pha đỏ tím, phân thùy thành bản rộng thuôn nhọn dần ở đầu, mặt ngoài màu lục nhạt, mặt trong màu đỏ hồng, trục hoa màu hồng; phần mang hoa cái hình trụ ngắn, phần mang hoa không sinh sản dài hơn, tiếp đến là phần không mang hoa dài gấp đôi phần mang hoa không sinh sản; phần mang hoa đực có nhiều hoa, phần cuối trục hình giùi, thẳng, gốc hơi loe rộng, hoa có mùi khó ngửi, nhất là về buổi chiều.
Mùa hoa: tháng 5-7.
Loài Typhonium divaricatum (L.) Decne (củ chóc ri, bán hạ dại) có dáng nhỏ hơn, lá hình mũi tên, hai thùy bên ngắn hẹp, phần thùy của mo kéo dài thành mũi nhọn cong, màu đỏ thẫm. Cây cũng được dùng với công dụng tương tự, nhưng ít phổ biến hơn.
Phân bố, sinh thái
Chi Typhonium Schott có khoảng 38 loài trên thế giới đều là những cây thảo, phân bố rải rác ở vùng ôn đới ấm, cận nhiệt đới và nhiệt đới châu Á, Bắc Phi, châu Đại Dương và một số đảo ở Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, chi này có 10 loài (Nguyễn Văn Dư, 2000) trong đó 3 loài được dùng làm thuốc. Loài củ chóc phân bố tương đối rộng rãi từ đồng bằng đến trung du và miền núi (dưới 1000m), trong đất liền cũng như ở một số đảo lớn. Cây còn phân bố ở Trung Quốc, Lào, Thái Lan và Ấn Độ.
Bán hạ ba thùy (củ chóc) có thân ngầm dạng củ, thường mọc ở đất ẩm trong vườn, bãi sông, rộng trồng hoa màu và nương rẫy. Hàng năm, cây thường mọc vào khoảng cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3. Sau khi ra hoa quả, phần trên mặt đất tàn lụi vào tháng 6-7. Cây mọc từ hạt, được một năm, củ còn nhỏ. Song ở những củ có đường kính trên 4 cm (chưa xác định được tuổi) thường có hiện tượng thối gốc.
Công dụng
Bán hạ ba thùy có vị cay, tính ôn, có độc, vào hai kinh tỳ và vị, có tác dụng tán phong đờm, hạ khí, giáng nghịch, hòa vị, chống nôn.
Bán hạ ba thùy là một vị thuốc được dùng trong y học cổ truyền, với tác dụng chống nôn mửa ở phụ nữ có thai, nôn mửa trong trường hợp viêm dạ dày mạn tính, chữa ho có đờm, ho lâu ngày, hen suyễn. Liều dùng: mỗi ngày 3 – 10g.
Dùng ngoài, lấy bán hạ ba thùy tươi giã nát đắp tại chỗ chữa mụn nhọt, sưng đau.
Bài thuốc
- Chữa ho gió, ho có đờm, ho lâu ngày, nôn mửa:
- Bán hạ ba thùy, vỏ quýt khô, rễ dâu, mỗi thứ 150g, cát cánh, ô mai, lá chanh, lá táo, cam thảo dây, mỗi thứ 100g, đường 200g. Bán hạ ba thùy , vỏ quýt, rễ dâu, cát cánh phơi sấy đến khô giòn, tán bột; ô mai bóc lấy cùi giã nhuyễn; lá chanh, lá táo, cam thảo dây sắc với 400ml nước còn khoảng 100ml, đường nấu thành sirô. Tất cả trộn đều làm viên 0,5g. Người lớn dùng 15 – 20 viên/ngày. Trẻ em tùy tuổi 5 – 15 viên. Ngậm làm nhiều lần.
- Hoặc bán hạ ba thùy 15g, vỏ quýt 15g, hạt cải củ 15g, hạt cải bẹ 10g. Sắc nước uống.
- Chữa đờm rãi kéo lên vướng cổ nghẹt thở, ho tức ngực, đau bụng nôn mửa đi ngoài:
Củ chóc ri 8g, trần bì 8g, gừng sống 6g. Sắc nước uống.
- Chữa trúng gió, răng cắn không nói được, động kinh rược đờm, chảy rãi không tỉnh:
Dùng bột bán hạ ba thùy thổi vào lổ mũi cho hắt hơi sẽ tỉnh, và xát bán hạ ba thùy vào lợi răng bệnh nhân sẽ há miệng nói được.
- Chữa hoắc loạn, bụng đầy trướng:
Bán hạ ba thùy (chế với gừng), quế, mỗi vị có lượng bằng nhau, tán bột uống với nước sắc lá lấu và xương bồ.