DÂY ĐAU XƯƠNG
DÂY ĐAU XƯƠNG
Tên khoa học: Tinospora sinensis (Lour.) Merr.
Tên khác: Khoan cân đằng, tục cốt đằng, khau năng cấp (Tày), chau mau nhây (Dao).
Tên nước ngoài: Tinospore tomenteuse (Pháp)
Họ: Tiết dê (Menispermaceae).
Mô tả
Dây leo bằng thân quấn, dài 8-10m. Thân hình trụ, màu xám, có nốt sần và có lông. Lá mọc so le, hình tim, đầu tù hay nhọn, dài 10-12cm, rộng 8-10cm, gân lá 5 hình chân vịt, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông tơ, đôi khi trắng nhạt.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm đơn độc hoặc nhiều chùm, có lông tơ màu trắng nhạt; hoa màu vàng lục, đài có 2 vòng, vòng ngoài gồm 3 răng hình mác, 3 răng vòng trong rộng và dài hơn; tràng có 6 cánh đối diện với lá đài trong, có lông tuyến ở gốc; nhị 6, bao phấn hình vuông.
Quả hình bầu dục hoặc hình tròn, khi chín màu đỏ, chứa chất nhầy bao quanh 1 hạt hình bán cầu.
Mùa hóa: tháng 3; mùa quả: tháng 4.
Phân bố, sinh thái
Chi Tiniospora Miers có 33 loài phân bố ở vùng nhiệt đới. Ở châu Phi có 7 loài, Madagascar 2 loài, châu Á và một số đảo ở Thái Bình Dương có 24 loài, trong đó riêng Malaysia có tới 14 loài. Ở Việt Nam, theo Nguyễn Tiến Bân, 1997 có 6-7 loài, trong đó 5 loài được dùng làm thuốc (Võ Văn Chi, 1997).
Dây đau xương phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới châu Á, châu Phi và Australia. Ở châu Á, có Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Campuchia, Lào, Việt Nam và Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, dây đau xương phân bố rải rác khắp vùng đồng bằng, trung du và vùng núi thấp với độ cao dưới 800m.
Dây đau xương thuộc loại dây leo gỗ, rụng lá về mùa đông, ưa ẩm và hơi chịu bóng, mọc lẫn trong các bụi cây quanh làng bản, ven rừng, đồi, bờ nương rẫy, gần các nguồn nước Cây sinh trưởng mạnh trong mùa xuân-hè, có khả năng tái sinh vô tính mạnh. Trồng dễ dàng bằng các đoạn thân và cành.
Nguồn dây đau xương owr Việt Nam khá phong phú. Tuy nhiên, do khai thác thường xuyên, nên ở vùng đồng bằng và trung du, cây đã trở nên hiếm dần. Hiện nay có nhiều nơi trồng.
Công dụng
Tính vị, công năng: Dây đau xương có vị đắng, tính mát, có tác dụng mạnh gân cốt, trừ phong thấp.
Dây đau xương được dùng chữa thấp khớp, tê bại, các khớp xương đau nhức, đau mình mẩy, ngã gây tổn thương ứ máu đau nhức, bong gân, sai khớp. Còn dùng chữa sốt rét mạn tinh, rắn cắn, làm ngừng nôn mửa và làm thuốc bổ. Ngày dùng 12-20g thân, cành, dạng thuốc sắc, hoặc thái nhỏ, sao vàng rồi ngâm rượu với tỉ lệ 20% để uống. Dùng liên tục trong 10-15 ngày. Dùng ngoài, giã nhỏ lá dây đau xương, trộn với rượu, đắp lên những chỗ sưng đau.
Dây đau xương được dùng hầu như cùng một cách với dây thần thông (Tinospora cordifolia). Nó được dùng xông khói để chữa trĩ và những vết thương bị loét và để bào chế những dung dịch thuốc dùng ngâm tắm trị bệnh gan. Rễ luộc chín, ăn trị sốt. Lá và thân cây tươi dùng uống để điều trị thấp khớp mạn tính.
Bài thuốc
- Chữa sai khớp xương, bong gân (Hải Thượng Lãn Ông):
Lá dây đau xương, quế, hồi hương, đinh hương, vỏ sòi, vỏ núc nác, gừng sống, lá canh châu, mủ xương rồng bà (Opuntia dillenii), lá thầu dầu tía, lá náng, lá kim cang, lá mua, huyết giác, củ nghệ, hạt trấp, hạt máu chó, lá bưởi bung, lá tầm gửi cây khế.
Các vị trên giã nhỏ, sao nóng và chườm.
- Trị rắn cắn:
Lá dây đau xương 20g, lá thài lài 30g, lá tía tô 20g, rau sam 50g. Dùng tươi, giã nhỏ, vắt lấy nước uống, bã đắp.
- Thuốc thấp khớp:
- Cao bào chế từ 2 vị: dây đau xương, củ kim cang, lượng bằng nhau. Ngày uống 6g cao.
- Cao chế từ các vị dây đau xương, độc lực, hoàng lực, thổ phục linh, huyết giác, lá lốt, bưởi bung, tầm xuân, hoàng nàn chế, kê huyết đằng, ngưu tất.
- Trị đau lưng, mỏi gối do thận hư yếu:
Dây đau xương 12g, cẩu tích 20g, củ mài 20g, tỳ giải 16g, đỗ trọng 16g, bổ cốt toái 16g, thỏ ty tử 12g, rễ cỏ xước 12g, củ mài 12g. Sắc hoặc ngâm rượu uống.