; NGẢI CỨU – Thảo dược HerbEco
Giỏ hàng

NGẢI CỨU

NGẢI CỨU

Tên khoa học: Artemisia vulgaris L.

Tên khác: Thuốc cứu, ngải diệp, nhả ngải (Tày), co linh ly (Thái), quá sú (H’Mông), ngỏi (Dao).

Tên nước ngoài: Wormwood, mugwort, fleabane, felon herb, motherwort, sailor’s tobacco (Anh), armoise, herbe de Feu, artémise, herbe de Saint – Jean, remise (Pháp).

Họ: Cúc (Asteraceae).

Mô tả

Cây thảo, sống lầu năm. cao 0.40 - 1m. Thân cành mọc sum sê, có rãnh và lông nhỏ. Lá mọc so le, chẻ lông chim, phiến men theo cuống đến tận gốc, dính vào thân như có bẹ, các thuỳ hình mác hẹp. đầu nhọn, mặt trên màu xanh lục sẫm, nhẵn hoặc có ít lông , mặt dưới phủ đầy lông nhung màu trắng, những lá ở ngọn có hoa không chẻ.

Cụm hoa mọc ở ngọn thân và đầu cành thành chùm kép, mang nhiều đầu nhỏ, màu vàng lục nhtaj, tổng bao gồm những lá bắc nguyên giống như những vảy có lông, đầu mọc chúc xuống cùng phía, hình trứng cút, mang hoa cái hoặc hoa lưỡng tính trên cùng một cum hoa hoặc ở những cụm khác nhua, thường hoa cái chiếm nhiều hơn, hoa không có mào lông, tràng hoa cái cso ống mảng, cụt hoặc có hai răng ở đầu, tràng hoa lưỡng tính hình phễu, có 5 thùy uốn cong ra phía ngoài, nhị 5.

Quả bế, thuôn nhỏ, không có trùm lông.

Toàn cây có mùi thơm hắc.

Mùa hoa quả: tháng 10 – 12.

Phân bố, sinh thái

Ngải cứu có nguồn gốc ở vùng ôn đới ẩm châu Âu hoặc châu Á, hiện nay cây được trồng và trở nên hoang dại hóa ở vùng nhiệt đới Nam Á, Đông – Nam Á và Ấn Độ, Pakistan, Srilanca, Bangladesh, lào, Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc… ở Việt Nam, cây được trồng từ lâu đời trong nhân dân từ nam đến bắc. Ở độ cao từ khoảng 800m trở lên, có cây ngải dại mọc tự nhiên rất nhiều ở tỉnh Lào Cai (Sa pa, Bắc Hà, Bát Xát, Mường, Khương, Than Uyên), lai Châu (Phong Thổ, Sìn Hồ, Tuần Giáo, Tủa Chùa) Yên Bái (Mù Cang Cahir), Cao Bằng (Trùng Khánh, Bảo Lạc) Lạng Sơn (Vùng Mẫu Sơn), Hòa Bình (Mai Châu) và Hà Giang… chính ngải dại là nguồn dược liệu được khai thác thường xuyên, mỗi năm đến 1000 tấn để sản xuất thuốc. còn ngải cứu trồng chỉ được sử dụng tại chỗ trong phạm vi nhân dân.

Ngải cứu là cây ưa ẩm, có thể hơi chịu bóng, thường được trồng phân tán trong các vườn gia đình, hay các vườn thuốc của các cơ sở y học dân tộc. Cây mọc thành từng khóm, nếu không bị thu hái, tỉa thưa sẽ nhanh chóng bò lan tạo thành đám lớn khó phân biệt giữa các cá thể. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa xuân – hè, về mùa đông, phân thân, cành trên mặt đất có hiện tượng tàn lụi một phần. Ngải cứu ra hoa quả nhiều hàng năm, song hạt không được sử dụng để gieo trồng.

Công dụng

Ngải cứu có vị đắng, mùi thơm, tính ấm, vào ba kinh can, tỳ, thận, có tác dụng điều hòa khí quyết, trừ hàn thấp, ôn kinh, an thai, giảm đau, cầm máu, sát trùng.

Ngải cứu được dùng chữa kinh nguyệt không đều, đau kinh, bụng lạnh đau, nôn mửa đi lỵ, thổ huyết, chảy máu cam, đa kinh, đái ra máu, bạch đới, đau dây thần kinh, phong thấp và ghẻ lở.

Để điều kinh, một tuần lễ trước dự kỳ có kinh, uống mỗi ngày 6 – 12g (tối đa 20g), dưới dạng thuốc sắc hoặc hãm, chia 3 lần uống trong ngày. Có thể uống dạng thuốc bột, ngày 5- 10g, hay thuốc cao đặc, ngày 1 – 4g.

Nếu có thai, thuốc không gây sẩy thai vì không có tác dụng kích thích đối với tử cung có thai.

Ngoài ra ngải cứu còn được dùng làm thuốc chữa giun và sốt rét. Ngải nhung được dùng làm mồi cứu.

Loài ngải dại (A vulgaris L. var. indica (Willd.) DC.) được đùng để thay thế ngải cứu.

Theo y học cổ truyền của Trung Quốc, lá ngải cứu được dùng làm thuốc cầm máu, hạ nhiệt, bổ toàn thân và trị tiêu chảy. Thuốc được chỉ định trong nhiễm độc thai nghén, viêm mủ da, đau dây thần kinh. Thân và lá ngải cứu khô đốt và hít khói chữa hen phế quản. Nước sắc phần trên mặt đất của ngải cứu dùng tắm để chữa sỏi thận và làm thuốc gây sẩy thai. Dạng thuốc mỡ ngải cứu để chữa một số bệnh da.

Phần trên mặt đất của cây là nguyên liệu để làm mồi cứu, một phương pháp được dùng phổ biến ở Trung Quốc để chữa nhiều bệnh. Dùng uống dạng thuốc sắc, liều một lần 3 – 5g.

Trong y học Ấn Độ, lá và ngọn mang hoa ngải cứu được dùng dưới dạng nước hãm trong các bệnh thần kinh và co thắt. Còn được dùng làm thuốc sát trùng, gây long đờm, trừ giun, chữa phong thấp.

Ở Nepal, rễ ngải cứu được dùng làm thuốc bổ và chống co thắt. Cây được dùng làm thuốc điều kinh, trị giun, chống co thắt và làm dễ tiêu. Nước hãm lá và ngọn mang hoa dùng trị các bệnh thần kinh và co thắt, hen và bệnh về não.

Nhân dân vùng trung tâm Haiti dùng lá ngải cứu làm thuốc chữa nôn dưới dạng nước sắc uống. Nhân dân Trung Quốc và Nhật Bản dùng chồi ngải cứu để điều trị viêm gan, vàng da, viêm túi mật, và làm thuốc thông mật, chống viêm, giảm đau và lời tiểu. Ở Philippin, nước sắc hoặc nước hãm lá ngải cứu chữa vết thương, làm long đờm, làm thuốc bổ dạ dày và điều kinh. Ở Indonesia, ngải cứu được dùng làn thuốc lợi tiểu, chữa trĩ, tiêu chảy, bệnh da và mụn lở. Ở Thái Lan, rễ ngải cứu trị giun, lá chueax hen, làm thuốc hạ sốt, long đờm, điều kinh và trị tiêu chảy, hoa dùng trị hen và ho có đờm.

Bài thuốc

  • Chữa ho:

Lá ngải cứu, lá nguyệt bạch, cây bọ mắn, mỗi thứ một nắm, trà ngon, đủ pha một ấm, gừng 3 lát. Sắc uống ngày một thang.

  • Chữa thiếu máu:

Ngải cứu, ích mẫu, hà thủ ô, lá sung, củ mài, mỗi vị 20g, hạt sen, táo nhân, đảng sâm, thục địa, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang, hoặc làm viên một ngày uống 20 – 30g.

  • Chữa đái ra máu (bổ sung ích khí thang gia vị):

Ngải cứu sao 12g, cỏ nhọ nồi sao 16g, hoàng kỳ, bạch truật, đảng sâm, sài hồ, thạch bá chi, ngó sen sao, mỗi vị 12g, đương quy, trần bì, thăng ma, mỗi vị 8g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày một thang.

  • Chữa đau lưng cấp khi vác nặng, lệch tư thế:

Lá ngải cứu sao rượu đắp ấm tại chôc.

  • Chữa sỏi đường tiết niệu không có cơn đau, không tiểu tiện ra máu, không đái buốt, đái dắt:

Ngải cứu 16g, kim tiền thảo 40g, kê nội kim 8g. Sắc uống ngày một thang.

  • Chữa cảm thương hàn, đau đầu phát nóng, mạch thịnh:

Ngải cứu khô 3 lạng sắc uống cho ra mồ hôi.

  • Chữa trúng phong cấm khẩu:

Dùng lá ngải cứu, đốt cứu ở huyệt dưới môi và bên gốc hàm (phối hợp với một số bài thuốc khác dùng uống).

  • Thuốc xoa bóp chữa phong thấp:

Ngải cứu và phèn chua 2 vị cùng sao lẫn rồi đắp và bóp vào chỗ đau.

  • Chữa ỉa ra máu (sau khi ra phân mới ra máu):

Ngải cứu, gừng sống, sắc uống.

  • Chữa tỳ vị bị lạnh sinh đau:

Ngải cứu tán nhỏ uống với nước chín.

  • Đề phòng bị gió sau khi khỏi đau mắt:

Ngải cứu, lá từ bi, lá nhãn, lá quýt, bạc hà đều bằng nhau. Đun với nước xong.

  • Chữa đầu phong, mặt lở ngứa chảy nước vàng:

Ngải cứu 80g, giấm thanh 600g, sắc lấy nước, lấy giấy mỏng dấp nước thuốc rồi đắp, mỗi ngày 2 lần.

  • Chữa lưỡi co thun không nói được:

Lá ngải cứu tươi, giã vắt lấy nước bôi.

  • Chữa khí hư:

Lá ngải cứu chưng với trứng gà mà ăn.

  • Chữa phụ nữ băng huyết:

Lá ngải cứu khô một nắm, gừng khô một đồng cân, sắc lấy nước. Lấy nữa lạng a giao san tán nhỏ hòa vào truốc trên. Uống làm 3 lần.

  • Chữa lỡ loét:

Lá ngải cứu khô đốt tồn tính và tán bột rắc:

  • Chữa trĩ:

Ngải cứu, hoa hòe, kinh giới, chỉ xác, đều bằng nhau, nấu nước, cho phèn chua vào. Xông và rửa.

  • Chữa kinh chậm, lượng ít, màu nhạt hoặc xám đen:

a. Ngải cứu, thục địa, đảng sâm, mỗi vị 12g, xuyên khung, hà thủ ô, mỗi vị 10g, can khương, xương bồ, mỗi vị 8g. Sắc uống.

b. Ngải cứu 8g, đảng sâm, ngưu tất, mỗi vị 12g, xuyên khung, nghệ đen quế chi, mỗi vị 8g, gừng tươi 2g. Sắc uống trong ngày.

  • Cao hương ngải điều kinh, chữa tăng huyết áp:

Ngải cứu, hương phụ, ích mẫu, lá bạch đồng nữa, mỗi vị 2g, thêm nước vào sắc kỹ, cô đến còn 100ml, thêm đường vào cho đủ ngọt. Đóng vào ống 100ml, hàn và hấp tiệt trùng (đun sôi và giữ sôi trong một giờ).

Chữa khinh nguyệt không đều, thấy kinh đâu bụng, khó sinh nở, khí hư. Ngày uống 3 – 6 ống. Muốn cho kinh nguyệt đều, uống 10 ngày trước ngày dự đoán có kinh. Uống 2 – 3 tháng. Có thể dùng lâu hơn.

Còn dùng chữa cao huyết áp, ngày 2 – 3 ống.

  • Chữa kinh nguyệt kéo dài, máu ra nhiều:

Lá ngải cứu khô 20g, nước 100ml, cô còn 20ml, thêm đường cho dễ uống. Chia làm 2 lần uống sáng và chiều. Uống hàng tháng từ ngày bắt đầu hành kinh.

  • Thuốc điều kinh:

Ngải cứu 50g, ích mẫu, hương phụ 100g. dạng thuốc viên hoặc cao lỏng có đường. Ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 10 – 15g.

  • Chữa đau bụng sau khi hành kinh:

Ngải cứu 8g, đảng sâm 16g, hoài sơn, bạch truật, hà thủ ô, kê huyết đằng, ngưu tất, mỗi vị 12g, nhục quế, can khương, mỗi vị 16g. Sắc uống trong ngày.

  • Chữa động thai(đang có thai đau bụng, ra máu):

a. Lá ngải cứu 16g, tía tô 16g, nước 600ml, sắc đặc còn 100ml. Thêm đường dễ uống. Chia uống 3 – 4 lần trong ngày.

b. Lá ngải cứu tươi 8g giã nhỏ, chế nước vào sắt lấy 2 chén nước cốt, hòa với một chén mật ông đun sôi, rồi thêm 10g cao da trâu hòa loãng để uống.

  • Chữa trúng hàng thấp đau vùng tim bụng lan ra hông sườn:

Ngải cứu, quế, gừng khô đều 8g, gừng sống 3 lát, sắc uống nóng.

  • Chữa sấy thai liên tiếp:

Ngải cứu 8g, củ gai 20g, tô ngạnh 16g, tang kỳ anh 16g, thục địa 12g, đương quy 10g, hoàng cầm 8g, cam thảo 4g. Sắc nước uống.

  • Chữa trẻ em đau bụng do giun đũa:

Lá ngải cứu tươi 8g giã nhỏ, chế nước sôi vào vắt lấy nột chén to, uống vào lúc sáng sơm, sau khi đã cho ăn một miếng thịt nướng. Vài giờ sau đi ngoài thì giun ra.

  • Chữa rong kinh sau đặt vòng tránh thai:

a. Ngải cứu 8g, ích mẫu 20g, đào nhân, uất kim, nga truật, hương phụ, mỗi vị 8g. Sắc uống.

b. Ngải cứu 12g, ngưu tất 16g, thục địa, cỏ nhọ nồi, mỗi vị 12g, xuyên khung, kỷ tử, quy bản, chi tử sao, mỗi vị 8g. Sắc uống trong ngày.

  • Chữa băng huyết và rong huyết kéo dài lâu ngày:

Ngải cứu 12g, thục địa 16g, bạch thược, cao sừng hươu, mỗi vị 12g, đương quy, xuyên khung, a giao, phụ tử chế, mỗi vị 8g, thán khương 6g. Sắc uống ngày một thang.