; THỔ NHÂN SÂM – Thảo dược HerbEco
Giỏ hàng

THỔ NHÂN SÂM

THỔ NHÂN SÂM

Tên khoa học: Talinum paniculatum (Jacq.) Gaertn.

Tên đồng nghĩa: Talinum patens (L.) Willd.

Tên khác: Thổ Cao Ly sâm, Đòng Dương sâm, Cừa ly sinh (Thái)

Họ: Rau sam (Portulacaceae)

Mô tả

Cây thảo, sống hàng năm hoặc sống dai, cao 30 – 50cm. Thân hình trụ nhẵn, phân cành ngày từ gốc. Lá mọc so le, dày, gần như không cuống hoặc có cuống rất ngắn, hình bầu dục hoặc hình trứng, gốc thuôn, đầu tù hoặc hơi nhọn, gân lá mờ, hai mặt nhẵn gần như cùng màu.

Cụm hoa là một chùy kép mọc ở đầu cành, gồm nhiều hoa nhỏ màu hồng; đài có 2 răng nhỏ; tràng 5 cánh nhọn; nhị nhiều; bầu thường hình cầu.

Quả nhỏ, hình cầu, khi chín màu đỏ nâu; hạt dẹt, màu đen nhánh.

Mùa hoa quả: tháng 5 -11.

Phân bố, sinh thái

Chi Talinum Adans hiện có 2 loài là thổ nhân sâm và một loài khác là T.triangulare (Jacq.) Willd. Được trồng lấy lá và ngọn non làm rau ăn. Cả hai đều có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới, sau phát triển ra các vùng khác nhau của thế giới (M. A. Rifai, 1994 in J. S. Siemonsma và Kasem Piluek, PROSEA N0 8 Vegetable, 268 – 269).

ở Việt Nam, thổ nhân sâm vừa là cây mọc tự nhiên, vừa là cây để làm thuốc. Cây mọc tự nhiên thường thấy ở các vùng núi đá vôi như huyện Yên Minh, Quản Bạ tỉnh Hà Giang; Chiêm Hóa – Tuyên Quang; Quảng Hòa, Hà Quảng, Trà Lĩnh – Cao Bằng; Tràng Đình, Bắc Sơn – Lạng Sơn; Thủy Nguyên – Hải Phòng; Kỳ Sơn – Nghệ An… Độ cao phân bố từ 400 đến 1300m. Thổ nhân sâm là cây ưa ẩm, ưa sáng, thường thấy trên các hốc mùn đá, kẽ đá nơi dãi nắng, sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm. Sau mùa hoa, quả, phần trên mặt đất có thể bị tàn lụi vào mùa đông. Quả thổ nhân sâm khi già tự mở, hạt phát tán ra xung quanh, do đó trong tự nhiên thường thấy cây mọc thành đám, gồm nhiều thế hệ khác nhau.

Trong cac năm 1960 – 1980, ở các tỉnh phía Bắc, thổ nhân sâm được thu mua nhiều từ nguồn tự nhiên và trồng trọt. Nguồn thổ nhân sâm mọc tự nhiên hiện nay đã trở nên quý hiếm dần, do nạn phá rừng.

Công dụng

Thổ nhân sâm có vị nhọt, tính bình, có tác dụng bổ trung ích khí, nhuận phế, sinh tân, kiện tỳ và điều kinh.

Trong y học cổ truyền, thổ nhân sâm được dùng làm thuốc bổ, chữa cơ thể hư nhược, ra mồ hôi, váng đầu, ù tai, hoa mắt, trẻ em tỳ hư tiết tả, phụ nữ đới hạ. Còn dùng chữa bệnh phổi, ho, sốt nóng.

Liều dùng; 20 – 30g/ ngày, dưới dạng thuốc sắc. Có khi người ta dùng rễ hoặc lá thổ nhân sâm nấu với thịt để ăn.

ở Indonesia, thổ nhân sâm được dùng làm thuốc kích thích sinh dục (aphrodisiac)

Bài thuốc

  • Chữa bệnh phổi, ho, sốt nóng, mồ hôi trộm:

Rễ thổ nhâm sâm 9 – 15g, đường kính 60g. Sắc nước uống, hoặc nghiên thành bột luyện với mật ông chế thành hoàn uống.

  • Chữa trẻ em tỳ hư, tiêu chảy;

Thổ nhân sâm 150g, gạo tẻ 60g. Hai vị sao vàng nghiền thành bột luyện với mật ông chế thành hoàn. Uống mỗi lần 6g, ngày 2 lần.

  • Chữa bệnh đái nhiều:

Thổ nhân sâm 60g, rễ kim anh 60g, sắc nước, chia làm 2 – 3 lần uống trong ngày.

  • Thuốc bổ:

Thổ nhân sâm 20g, rễ vú bò 20g,rễ hà thủ ô 20g, rễ bạch truật nam 20g, rễ gai 20g, hoài sơn 16g, rễ sài hồ nam 12g, cam thảo dây 8g, trần bì 8g, gừng 3 lát. Rễ vú bò thái nhỏ sao với nước đường. Rễ hà thủ ô (loại đỏ hoặc trắng) ngâm nước vo gạo một ngày một đêm, rửa sạch, tẩm nước đậu đen (100g đậu đến nấu với 5 lít nước còn 2 lít), đem nấu đến khi rễ mềm là được, rôi phơi khô, thái nhỏ, sao qua. Tất cả sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Một đợt điều trị kéo dài 5 – 7 ngày.