; CHÈ VẰNG – Thảo dược HerbEco
Giỏ hàng

CHÈ VẰNG

CHÈ VẰNG

Tên khoa học: Jasminum subtriplinerve Blume

Tên khác: Vằng, vằng sẻ, vằng lá nhỏ, râm ri, râm leo, râm trắng, lài 3 gân.

Họ: Nhài (Oleaceae).

Mô tả

Cây nhỏ, mọc thành bụi. Cành mảnh, vươn dài. Lá mọc đối, hình bầu dục - mũi mác, gốc tròn, đầu thuôn thành mũi nhọn, hai mặt nhẵn gần như cùng màu, mặt trên bóng, 3 gân tỏa từ gốc, những lá gần cụm hoa nhỏ dần trông như những lá bắc; cuống ngắn.

Cụm hoa mọc ở đầu cành thành chùy, gồm 7 - 9 hoa màu trắng; lá bắc hình dùi; đài hoa có ống ngắn, 8 - 10 thùy rất hẹp và nhọn; tràng có ống dài phình lên ở đầu, 8 - 10 cánh hoa hẹp; nhị đính ở họng tràng; bầu tù.

Quả mọng, khi chín màu đen.

Mùa hoa: tháng 3 – 4, mùa quả tháng 5 - 6.

Loài Jasminum anastomosans Wall, cụm hoa chỉ có 2 - 3 hoa cũng được dùng với công dụng tương tự.

Chú ý: Tránh nhầm chè vằng với là ngón vì chúng rất giống nhau ở dáng cây. Đã có trường hợp hái nhầm và dùng bị ngộ độc chết người.

Phân bố, sinh thái

Jasminum L. là một chi lớn, gồm những cây bụi, mọc dựa hoặc leo, phân bố rộng rãi từ vùng nhiệt đới đến cận nhiệt đới và cả vùng ôn đới ấm.

Ở Việt Nam, chi này có 30 loài, trong đó 8 loài được dùng làm thuốc. Trừ loài hoa nhài, 7 loài còn lại thuộc nhóm dây leo hay cây mọc dựa, thường có tên gọi chung là “Vằng” hoặc “Chè vằng”.

Chè vằng phân bố phổ biến và khá tập trung ở khu vực các nước Đông Nam Á và Nam Á. Ngoài ra, cây cùng còn gặp ở các tỉnh phía nam Trung Quốc và đảo Hải Nam. Ở Việt Nam, chè vằng có rải rác ở hầu hết các tỉnh thuộc vùng núi thấp, trung du và cả đồng bằng. Không thấy cây mọc ở vùng núi cao trên 1500m.

Chè vằng là cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, nhất là thời kì cây còn nhỏ, thường mọc lẫn trong các lùm bụi ở ven đồi, bờ nương rẫy và quanh làng bản. Cây mọc nơi đất ẩm, sinh trưởng mạnh hơn cây ở vùng đồi khô hạn. Chỉ có những cây mọc trùm lên các cây bụi khác, được chiếu sáng đầy đủ mới thấy có nhiều hoa quả. Trong tự nhiên thường gặp nhiều cây con mọc từ hạt xung quanh gốc cây mẹ. Sau khi bị chặt phá nhiều lần, phần thân, cành còn lại của chè vằng đều có khả năng tái sinh nhiều chồi.

Nguồn trữ lượng chè vằng ở Việt Nam nhìn chung tương đối dồi dào. Việc thu hái cành lá hàng năm không ảnh hưởng xấu đến sự phát triển cành của cây.

Công dụng

Chè vằng có vị hơi đắng, chát, tính ấm, vào hai kinh: tâm, tỳ, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, khư phong, hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, trừ mủ.

Chè vằng được dùng trị kinh nguyệt không đều, bế kinh hoặc khi thấy kinh đau bụng, sau khi đẻ bị nhiễm khuẩn sốt cao, viêm hạch bạch huyết, viêm tử cung và tuyến vú, áp xe vú, khí hư bạch đới. Còn dùng trị phong thấp do huyết kém, đau nhức khớp xương, vàng da, ghẻ lở, chốc đầu, các bệnh ngứa ngoài da, rắn cắn.

Ngày dùng 40 – 100g cây tươi hoặc 20 – 30g dược liệu khô dưới dạng thuốc sắc hoặc nấu nước tắm, liều lượng không hạn chế.

Bài thuốc

  • Chữa phụ nữ kinh nguyệt không đều, bế kinh đau bụng:

Chè vằng 20g, ích mẫu 16g, hy thiêm 16g, ngải cứu 8g, bạch đồng nữ 8g, nước 500ml. Sắc còn 300ml, uống làm 3 lần trong ngày.

  • Chữa sưng vú, vết thương:

Chè vằng 30g, sắc uống. Giã cây tươi đắp ngoài.

  • Chữa áp xe vú:

Lá chè vằng tươi giã nát dùng riêng hoặc trộn với cồn 500 đắp vào nơi áp xe. Ngày 3 lần, đêm 2 lần.

Áp dụng thử nghiệm trên lâm sàng, sau khi khỏi, số lượng bạch cầu, công thức bạch cầu và sự tiết sữa đều trở lại bình thường.

  • Chữa vàng da:

Chè vằng, ngấy hương, mỗi vị 20g. Sắc uống, ngày một thang.

  • Thuốc nhuận gan:

Chè vằng 12g, nhân trần 20g; chi tử, lá mua, vỏ núc nác, rau má, lá bồ cu vẽ, vỏ đại, mỗi vị 12g; thanh bì 8g.